Bàn Về Một Số Vấn Đề Ở Nông Thôn Nước Ta Hiện Nay NXB Chính Trị 2008 Hồ Văn Thông 143 Trang Bức tranh nông thôn và người nông dân Việt Nam hiện nay sẽ ra sao khi nước ta hội nhập sâu rộng hơn và khi nước ta trở thành nước cơ bản công nghiệp hóa? Đây là vấn đề mà nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, nhà văn hóa đang tập trung nghiên cứu. Đảng ta dự kiến sẽ tổ chức Hội nghị Trung ương 7 (6/2008) để bàn sâu rộng và căn bản về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam (tam nông). Dựa trên Báo cáo Phát triển Thế giới 2008 của Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 11/12/2007 với tựa đề “Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” và thông tin từ hai cuộc hội thảo liên quan tới nông thôn Việt Nam tổ chức trong tháng 12 vừa qua, Vụ Báo chí xin tổng hợp lại một số thông tin để các đồng chí tham khảo. 1- Nông nghiệp đối với sự phát triển của các nước chuyển đổi Báo cáo của WB cho rằng Đông Á và ĐNA, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang đô thị hóa như Việt Nam, thì nông nghiệp vẫn được coi là yếu tố quan trọng trong việc xóa đói nghèo, tăng thu nhập cho nông dân. Hay nói cách khác, nông dân muốn thoát nghèo vẫn phải gắn với nông nghiệp. Các số liệu thống kê cho thấy, đã có 200 triệu người thoát nghèo nhờ nghề nông; việc di dân ra thành thị cũng là nguyên nhân chiếm 20% trong việc giảm số người nghèo có thu nhập 1 USD/ngày ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á; tới năm 2040 vẫn còn 75% người nghèo và đa số họ vẫn sống ở nông thôn. Ở Việt Nam, nông nghiệp còn mở đường cho các chính sách đổi mới. Thực tiễn trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam đã đem lại lợi ích cho cả vùng đô thị và nông thôn. Năm 1993 có tới 2/3 số dân nông thôn được coi là nghèo thì ngày nay con số này chỉ còn 1/5. Nhưng khi Việt Nam chuẩn bị bước vào vị thế là nước có mức thu nhập trung bình và cao hơn, vấn đề là liệu sự phát triển có lợi cho tất cả mọi người còn tồn tại được nữa không? Cải thiện năng suất nông nghiệp và tạo cơ hội cho người nghèo ở nông thôn và các dân tộc thiểu số vẫn là vấn đề lớn cần phải quan tâm đúng mức. Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam đã làm tốt việc tạo điều kiện cho sản xuất tiếp cận tốt nhất với tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nước... giao đất cho nông dân sản xuất cùng với tự do hoá thương mại và đầu tư mạnh về thuỷ lợi. 2- Nông thôn Việt Nam hiện nay: một số tồn tại Tại cuộc hội thảo "Công nghiệp hóa nông thôn và phát triển nông thôn Việt Nam - Đài Loan", do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan tổ chức ngày 17/12/2007, và cuộc hội thảo “Nông dân Việt Nam trong quá trình hội nhập” do Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn tổ chức ngày 18/12/2007, các chuyên gia đã liệt kê ra những vấn đề xã hội bức xúc, nan giải trong 20 năm qua. Đó là vấn đề khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội; tình trạng thiếu việc làm, di dân tự phát; xung đột xã hội gia tăng; dân trí và quan trí thấp; dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe yếu kém; đời sống văn hóa có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp; năng lực quản lý xã hội, kết cấu hạ tầng thấp kém; môi trường bị ô nhiễm và suy thoái ở mức báo động. Mức độ giảm nghèo chung của Việt Nam tiến bộ liên tục. Tuy nhiên, xu hướng phân hóa giàu nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc biệt là giữa nông thôn với đô thị. Nhiều chuyên gia còn đưa ra con số về chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn - thành thị lên tới trên 6,9 lần (2004) chứ không phải con số 3,5 lần như vẫn nhắc đến. Một vấn đề nữa là người nông dân thiếu việc làm do bị mất đất do xu thế tích tụ ruộng đất ngay tại nông thôn và quá trình đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp hiện nay (20 năm qua, 300.000 héc-ta đất nông nghiệp bị mất đi do quá trình này). Điều này đã làm cho vấn đề thiếu việc làm tại nông thôn và xu hướng di dân ra thành phố để mưu sinh là không thể tránh khỏi. Đây là xu thế của một xã hội phát triển là giảm tương đối cơ cấu của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa học hiện đại không được chuyển giao một cách có hệ thống. Người nông dân thiếu kiến thức, nên khó chuyển giao được khoa học công nghệ để họ thực sự làm chủ. Điều này tiếp tục đặt họ và thế bất lợi hơn nữa. Một thách thức to lớn nữa của khu vực nông thôn là sức ép trong chi tiêu cho giáo dục, áp lực của tình trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường đến mức báo động. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và không khí rất nặng, làm suy thoái tài nguyên môi trường do khai thác tự phát, không theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Khu vực đô thị - công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm và suy thoái môi trường nặng nề hơn và cư dân ven đô lại là những người trực tiếp chịu hậu quả. 3- Một số giải pháp - Phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách. Một là đưa lao động ra khỏi khu vực nông thôn về các khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố. Hai là đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát triển làng nghề... Mặc dù đây là vấn đề rất lớn để giảm thiểu sự bất bình đẳng hiện nay, nhưng Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới vấn đề này, trong khi đây là xu thế tất yếu. - Tăng đầu tư của Nhà nước về nông thôn. Hiện nay, đầu tư của Nhà nước về nông thôn còn hạn chế (chiếm 14% tổng đầu tư) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này không đáng kể (3% tổng đầu tư FDI cả nước). Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học công nghệ (hiện chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng không dễ dàng bởi nông dân rất khó tiếp cận và làm chủ KHCN.https://drive.google.com/drive/folders/1yLBzZ1rSQoNjmWeJTZ3WGQHg04L1 - Thiết lập hệ thống khuyến nông tốt. Có thể thuê khuyến nông tư nhân làm mà không cần phải dựa hoàn toàn vào Nhà nước. Ngoài ra, phải có các cơ chế tài chính phù hợp thu hút các tổ chức quốc tế, phi chính phủ làm việc này và tăng cường các mô hình giáo dục, đào tạo ở địa phương để người dân có thể tiếp cận được". Song song đó là đầu tư cho các dịch vụ công khác và đẩy mạnh cải cách thể chế. - Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với sự dịch chuyển trong nông nghiệp. - Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, phải xóa bỏ chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (khoảng 10% GDP của nông nghiệp) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp. - Có chính sách hỗ trợ cho an ninh lương thực. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho lĩnh vực này. Muốn đảm bảo an ninh lương thực, duy trì diện tích và sản lượng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long thì phải có chính sách để bảo đảm thu nhập cho người dân và cho phát triển vùng này. Hiện nay, những tỉnh có tỉ trọng nông nghiệp cao trong GDP là những tỉnh nghèo, kém phát triển. Nên xem vấn đề an ninh lương thực dưới góc độ cung cấp dịch vụ cơ bản. 4- Kết luận Bằng nội lực, người dân nông thôn chỉ đủ đảm bảo mưu sinh. Muốn phát triển bền vững, người dân nông thôn cần rất nhiều sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cụ thể, khu vực tam nông cần khung khổ pháp lý của nhà nước và những cam kết quốc tế; đào tạo, nâng cao năng lực toàn diện; quy hoạch và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển; chú trọng nâng cao năng lực đánh giá, điều chỉnh hoặc thay đổi các dự án và chương trình này. Quan điểm hỗ trợ tam nông phải được hiểu và thao tác theo lý thuyết tương tác, tương hỗ, tức là phát triển theo mô hình hợp tác giữa tam nông với các khu vực khác của xã hội. Lý thuyết hợp tác 4 nhà (nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học) theo nguyên tắc các bên cùng có lợi cần phải bổ sung thêm nhà công tác xã hội để trở thành lý thuyết 5 nhà cho chiến lược phát triển bền vững tam nông.... (Tổng hợp từ Báo chí Việt Nam tháng 12/2007) Download Link: eBook có trong tuyển tập DVD Hành Chính http://thuvienbinhthuan.com.vn/tailieusohoa/chitiet.aspx?matapchi=1463