Địa bạ là sổ sách hành chính ghi chép về ruộng đất; Địa - đất, Bạ - sổ sách, địa bạ tương đương địa bộ, điền bộ. Địa bạ ghi chép và xác nhận các loại hình sở hữu ruộng đất của làng xã. Bắt đầu lập từ thời Lý cho đến thời Nguyễn đã tiến hành đạc điển (đo đạc ruộng đất) và lập địa bạ trên quy mổ: S8 DưỚC, Mỗi địa bạ sao làm 3 bản: bản giáp lưu giữ ở triều đình Huế (hiện còn hơn 10.000 bản lưu giữ tại Cục lưu trữ nhà nước), bản ất lưu giữ ở tỉnh và bản bính lưu giữ ở xã. Diện tích các loại ruộng đất, liệt kê từng thửa với diện tích, địa giới và họ tên chủ sở hữu, thủ tục xác nhận của các cấp chính quyền. Thời Pháp thuộc, địa bạ được thể hiện trong bản đồ chính Xác và khoa học hơn. Địa bạ là cơ sở pháp lí về quyần sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất của cộng đồng làng xã, cá nhân và của tập thể họ hàng, phe giáp. Lược Khảo Về Hội Tịch Và Địa Bạ NXB Nghiêm Hàm 1925 Lê Văn Hiển 116 Trang File PDF-SCAN Link download https://drive.google.com/file/d/1SkrQJW0t4HF27T3yAOkbwDhbUP4j6X1Qhttps://drive.google.com/drive/folders/1yLBzZ1rSQoNjmWeJTZ3WGQHg04L1